Hướng dẫn ADA 2025 về béo phì và quản lý cân nặng là một phần trong bộ Standards of Care in Diabetes – 2025 do Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) ban hành năm 2025, đưa ra khuyến nghị cập nhật về vai trò của kiểm soát cân nặng trong quản lý bệnh đái tháo đường típ 2.
Béo phì là một bệnh mạn tính, thường tái phát, đi kèm với nhiều biến chứng chuyển hóa, thể chất và tâm lý. bao gồm cả việc làm tăng đáng kể nguy cơ khởi phát và tiến triển của bệnh đái tháo đường típ 2. Có nhiều bằng chứng mạnh mẽ và nhất quán cho thấy rằng quản lý cân nặng hiệu quả có thể làm chậm quá trình chuyển từ tiền đái tháo đường sang đái tháo đường típ 2, mang lại lợi ích đáng kể trong điều trị đái tháo đường típ 2.
Ở những người mắc đái tháo đường típ 2 và có thừa cân hoặc béo phì, giảm cân dù chỉ ở mức độ vừa phải cũng có thể cải thiện đường huyết và làm giảm nhu cầu sử dụng thuốc hạ đường huyết. Việc giảm cân nhiều hơn nữa còn giúp giảm đáng kể chỉ số HbA1c, đường huyết lúc đói và thậm chí có thể giúp bệnh lui về trạng thái thuyên giảm bền vững.
Phần này cung cấp các khuyến nghị dựa trên bằng chứng trong quản lý béo phì. bao gồm can thiệp hành vi, điều trị bằng thuốc và phẫu thuật dành cho những người đang mắc hoặc có nguy cơ cao mắc đái tháo đường típ 2.
Đánh giá và theo dõi người thừa cân hoặc béo phì
Khuyến cáo
- 1. Sử dụng ngôn ngữ lấy người bệnh làm trung tâm, không mang tính phán xét và khuyến khích sự hợp tác giữa người bệnh và nhân viên y tế. Nên dùng cách gọi đặt con người lên trước bệnh lý (ví dụ: “người mắc béo phì” thay vì “người béo phì”, “người mắc đái tháo đường” thay vì “bệnh nhân đái tháo đường”). Mức chứng cứ E
- 2a. Để hỗ trợ chẩn đoán béo phì, cần đo chiều cao và cân nặng để tính chỉ số BMI, đồng thời có thể thực hiện thêm các đo lường khác về phân bố mỡ như vòng eo, tỷ lệ eo – hông hoặc tỷ lệ eo – chiều cao trong trường hợp chỉ số BMI không xác định rõ. Mức chứng cứ E
- 2b. Cần theo dõi các chỉ số nhân trắc liên quan đến béo phì (obesity-related anthropometric measurement) như chiều cao, cân nặng, vòng eo, chỉ số BMI… ít nhất mỗi năm một lần để làm cơ sở cho các quyết định điều trị. Khi người bệnh đang trong quá trình điều trị giảm cân tích cực, cần tăng tần suất theo dõi lên ít nhất mỗi 3 tháng. Mức chứng cứ E
- 3. Nên đảm bảo sự riêng tư khi tiến hành đo lường các chỉ số nhân trắc học của người bệnh. Mức chứng cứ E
- 4. Ở những người mắc đái tháo đường típ 2 và có thừa cân hoặc béo phì, quản lý cân nặng nên được xem là một mục tiêu điều trị chính song song với kiểm soát đường huyết. Mức chứng cứ A
- 5. Cần cung cấp điều trị quản lý cân nặng, dù chỉ đạt được mức giảm cân nhỏ. Giảm 3-7% cân nặng so với ban đầu đã có thể cải thiện đường huyết và các yếu tố nguy cơ tim mạch trung gian. Việc giảm hơn 10% cân nặng thường mang lại nhiều lợi ích hơn, bao gồm tác dụng thay đổi tiến trình bệnh và khả năng lui bệnh đái tháo đường típ 2, đồng thời có thể cải thiện kết cục tim mạch lâu dài và giảm tử vong. Mức chứng cứ A đối với 3-7% giảm cân, B đối với > 10% giảm cân
- 6. Cần cá thể hóa phương pháp điều trị ban đầu cho người béo phì, bao gồm liệu pháp thay đổi lối sống và dinh dưỡng, thuốc điều trị hoặc phẫu thuật chuyển hóa (thường được gọi là phẫu thuật dạ dày giảm cân) dựa trên tiền sử y khoa, hoàn cảnh sống, sở thích và động lực của từng cá nhân. Có thể kết hợp các phương pháp điều trị nếu phù hợp. Mức chứng cứ A đối với cá thể hóa, C đối với lựa chọn phương pháp, E đối với kết hợp

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa béo phì là sự tích lũy mỡ bất thường hoặc quá mức, gây nguy cơ cho sức khỏe. BMI (chỉ số khối cơ thể, tính bằng cân nặng chia cho bình phương chiều cao) là công cụ được sử dụng phổ biến để chẩn đoán và phân loại béo phì. Tuy nhiên, BMI không nên là công cụ duy nhất trong chẩn đoán và phân tầng béo phì.
Mặc dù dễ đo lường, BMI không phản ánh chính xác lượng mỡ, phân bố mỡ trong cơ thể hay chức năng của mô mỡ và không thể hiện được tác động của cân nặng đến sức khỏe hoặc chất lượng sống. BMI dễ gây sai lệch ở những người cơ bắp hoặc gầy yếu, cũng như ở các nhóm dân số có thành phần cơ thể và nguy cơ chuyển hóa khác biệt.
Chẩn đoán béo phì nên dựa trên đánh giá toàn diện, bao gồm khối lượng mô mỡ (BMI có thể là hướng dẫn chung), phân bố (sử dụng các số đo như vòng eo, tỷ lệ eo – hông, tỷ lệ eo – chiều cao), chức năng mô mỡ và quan trọng nhất là các hậu quả liên quan đến sức khỏe hoặc chất lượng sống, gồm chuyển hóa, thể chất và tâm lý.
Béo phì là yếu tố chính dẫn đến nhiều bệnh lý, bao gồm đái tháo đường và các yếu tố nguy cơ tim mạch như tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, gan nhiễm mỡ do rối loạn chuyển hóa và tình trạng viêm mạn tính. Ngoài ra, béo phì còn liên quan đến các bệnh lý tim mạch và thận.
Đái tháo đường có thể làm tình trạng béo phì trở nên nghiêm trọng hơn, đặc biệt khi các thuốc điều trị hạ đường huyết như insulin, sulfonylurea hay pioglitazone gây tăng cân. Ngược lại, béo phì cũng làm tăng đường huyết, tạo thành vòng xoắn bệnh lý, dẫn đến biến chứng vi mạch và đại mạch. Vì vậy, để kiểm soát tình trạng bệnh một cách toàn diện, mục tiêu điều trị cần bao gồm cả việc kiểm soát đường huyết và giảm cân.
Cân nặng và chiều cao (để tính BMI) cùng các chỉ số nhân trắc khác nên được đo ít nhất mỗi năm một lần để hỗ trợ chẩn đoán béo phì. Trong giai đoạn điều trị chủ động, việc đo lường nên được thực hiện tối thiểu mỗi ba tháng. Một số tình huống lâm sàng như suy tim hay sụt cân không rõ nguyên nhân có thể cần theo dõi thường xuyên hơn.
Nếu người bệnh từ chối đo lường, nhân viên y tế cần lưu ý khả năng họ từng trải qua trải nghiệm kỳ thị và nên giải thích lý do việc theo dõi chỉ số này là một phần của quá trình thăm khám, giúp đưa ra quyết định điều trị. Cần bố trí không gian riêng tư khi thực hiện đo lường nhân trắc, đặc biệt với người có mức độ căng thẳng cao liên quan đến tình trạng bệnh. Việc đo đạc cần được thực hiện một cách tôn trọng và xem như thông tin sức khỏe nhạy cảm.
Nhân viên y tế nên khuyến nghị người thừa cân hoặc béo phì, cũng như những người có xu hướng tăng cân, rằng tích tụ mỡ quá mức sẽ làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường, bệnh tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân, cùng nhiều hệ quả tiêu cực khác đến sức khỏe và chất lượng sống.
Đồng thời, cần đánh giá mức độ sẵn sàng thay đổi hành vi và thiết lập mục tiêu cụ thể về hành vi cũng như cân nặng thông qua trao đổi hai chiều và quyết định chung. Chiến lược bao gồm thay đổi chế độ ăn, hoạt động thể chất, tư vấn hành vi, thuốc điều trị béo phì, thiết bị y tế và phẫu thuật chuyển hóa. Việc lựa chọn cần cá nhân hóa dựa trên lịch sử y tế, hoàn cảnh sống, sở thích và mức độ động lực của từng người.
Với người mắc đái tháo đường típ 2 kèm thừa cân hoặc béo phì có kiểm soát đường huyết, huyết áp, lipid kém hoặc có biến chứng chuyển hóa khác liên quan béo phì, việc giảm 3-7% cân nặng sẽ cải thiện đường huyết, huyết áp, lipid máu và có thể giúp giảm nhu cầu thuốc. Ở người có nguy cơ mắc đái tháo đường, mức giảm cân này cũng giúp làm chậm tiến triển thành bệnh.
Giảm cân nhiều hơn sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn nữa. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, giảm hơn 10% trọng lượng cơ thể giúp cải thiện đường huyết, tăng khả năng lui bệnh đái tháo đường, cải thiện các bệnh đồng mắc như bệnh gan nhiễm mỡ chuyển hóa, viêm mô mỡ, ngưng thở khi ngủ, tăng chất lượng sống và giảm nguy cơ tim mạch.
Với ngày càng nhiều phương pháp điều trị hiệu quả, người bệnh đái tháo đường kèm thừa cân hoặc béo phì cần được cung cấp thông tin đầy đủ về lợi ích của giảm cân dù ít hay nhiều và được hướng dẫn chọn lựa chiến lược phù hợp, thông qua trao đổi đồng thuận với Bác sĩ điều trị.
Dinh dưỡng, hoạt động thể chất và can thiệp hành vi
Khuyến cáo
- 7. Dinh dưỡng, hoạt động thể chất và trị liệu hành vi được khuyến nghị cho người mắc đái tháo đường típ 2 có thừa cân hoặc béo phì, nhằm đạt được cả mục tiêu về cân nặng và kết quả sức khỏe. Mức chứng cứ B
- 8a. Các can thiệp bao gồm tư vấn thường xuyên (ít nhất 16 buổi trong 6 tháng), tập trung vào thay đổi chế độ ăn, tăng cường hoạt động thể chất và chiến lược hành vi nhằm tạo ra mức thâm hụt năng lượng khoảng 500-750kcal/ngày nên được khuyến nghị để giảm cân và cần được xem xét nếu khả dụng. Mức chứng cứ A
- 8b. Nếu không thể tiếp cận những chương trình trên, có thể cân nhắc các chương trình can thiệp hành vi khác, dưới hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến. Mức chứng cứ E
- 9. Khuyến nghị về dinh dưỡng cần được cá nhân hóa theo sở thích và nhu cầu dinh dưỡng của từng người. Các kế hoạch dinh dưỡng cần tạo ra mức thâm hụt năng lượng để giảm cân, bất kể tỷ lệ thành phần dinh dưỡng đa lượng (carbohydrate, protein, chất béo). Mức chứng cứ A
- 10. Khi xây dựng kế hoạch chăm sóc, cần xem xét đến các yếu tố hệ thống, cấu trúc, văn hóa và kinh tế xã hội có thể ảnh hưởng đến thói quen dinh dưỡng và lựa chọn thực phẩm, như thiếu an ninh lương thực, đói, khả năng tiếp cận thực phẩm lành mạnh và các yếu tố xã hội khác ảnh hưởng đến sức khỏe. Mức chứng cứ C
- 11. Với những người đã đạt được mục tiêu giảm cân, cần tiếp tục theo dõi tiến trình, cung cấp hỗ trợ liên tục và khuyến khích duy trì các can thiệp nhằm giữ vững cân nặng trong dài hạn. Mức chứng cứ E Các chương trình duy trì cân nặng hiệu quả trong ít nhất một năm, bao gồm việc liên lạc hàng tháng và hỗ trợ liên tục, tự theo dõi cân nặng thường xuyên (ít nhất hàng tuần), sử dụng các công cụ tự theo dõi khác như nhật ký ăn uống hoặc thiết bị đeo tay và duy trì hoạt động thể chất đều đặn từ 200-300 phút/tuần. Mức chứng cứ A
- 12. Can thiệp dinh dưỡng ngắn hạn với các bữa ăn rất ít calo (800-1.000kcal/ngày) chỉ nên được chỉ định cho các đối tượng được chọn lọc kỹ càng, bởi các chuyên gia được đào tạo, trong cơ sở y tế có theo dõi chặt chẽ. Cần tích hợp các chiến lược duy trì cân nặng và tư vấn toàn diện trong dài hạn để giữ được hiệu quả giảm cân. Mức chứng cứ B
- 13. Các loại thực phẩm chức năng hoặc sản phẩm bổ sung dinh dưỡng hiện chưa được chứng minh hiệu quả trong giảm cân và không được khuyến nghị sử dụng. Mức chứng cứ A
Can thiệp hành vi
Nhiều chương trình can thiệp hành vi đã chứng minh hiệu quả trong việc giúp giảm năng lượng tiêu thụ, tăng hoạt động thể chất hoặc kết hợp cả hai yếu tố này.
Nghiên cứu Look AHEAD (Action for Health in Diabetes) đã chứng minh tính khả thi của việc đạt và duy trì giảm cân lâu dài ở người mắc đái tháo đường típ 2. Khoảng một nửa số người tham gia chương trình can thiệp tích cực có thể giảm và duy trì mức giảm từ 5% cân nặng ban đầu trở lên.
Ngoài ra, việc cá nhân hóa các biện pháp can thiệp hành vi theo bối cảnh văn hóa còn giúp tăng cường hiệu quả của chương trình. Để đạt được giảm cân đáng kể qua thay đổi lối sống, cần tạo ra mức thâm hụt năng lượng khoảng 500-750kcal/ngày.
- Với phần lớn phụ nữ, tổng năng lượng nạp vào mỗi ngày nên dao động khoảng 1.200-1.500kcal.
- Với nam giới, khoảng 1.500-1.800kcal, có điều chỉnh tùy vào cân nặng cơ bản.
Các lợi ích lâm sàng bắt đầu xuất hiện khi người bệnh giảm khoảng 3% cân nặng, tuy nhiên mức lợi ích sẽ gia tăng nếu đạt được các mốc giảm cao hơn như 7%, 10%, 15%… Trong nghiên cứu Look AHEAD, gần một phần ba người tham gia duy trì được mức giảm cân ≥ 10% sau 8 năm, đồng thời cần dùng ít thuốc hơn để kiểm soát đường huyết, huyết áp và mỡ máu so với nhóm điều trị tiêu chuẩn.
Chế độ ăn giúp tạo ra thâm hụt năng lượng có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau, không có một mô hình duy nhất vượt trội tuyệt đối. Một số chiến lược phổ biến bao gồm điều chỉnh tỷ lệ các thành phần dinh dưỡng đa lượng hoặc sử dụng thực đơn thay thế được xây dựng bởi chuyên gia.
Giảm tiêu thụ thực phẩm chế biến và siêu chế biến cũng là hướng đi triển vọng. Trong thử nghiệm POUNDS Lost, việc thay thế thực phẩm siêu chế biến bằng thực phẩm ít chế biến hơn (với cùng lượng calo) giúp cải thiện đáng kể lượng mỡ vùng thân người.
Lựa chọn cụ thể về dinh dưỡng và lối sống cần được cá nhân hóa theo tình trạng sức khỏe, yếu tố xã hội, bối cảnh văn hóa, sở thích cá nhân và hoàn cảnh thực tế.
Dựa trên bằng chứng từ các nghiên cứu lớn như DPP và Look AHEAD, các chương trình hành vi chuyên sâu thường bao gồm ít nhất 16 buổi trong 6 tháng đầu, tập trung vào thay đổi dinh dưỡng, hoạt động thể chất và các chiến lược hành vi để đạt mức thâm hụt năng lượng khoảng 500-750kcal/ngày.
Các chương trình này nên được thực hiện bởi người có chuyên môn, dưới hình thức gặp mặt trực tiếp hoặc từ xa, cá nhân hoặc theo nhóm. Trước khi triển khai, cần đánh giá động lực của người tham gia, hoàn cảnh sống, văn hóa, kinh tế và khả năng thực hiện thay đổi hành vi bên cạnh các yếu tố y tế.
Với người đái tháo đường típ 2 thừa cân hoặc béo phì đã giảm cân, nên tiếp tục duy trì can thiệp hành vi lâu dài từ một năm trở lên. Chương trình nên được thực hiện bởi nhóm chuyên gia đa chuyên khoa, có kinh nghiệm trong duy trì cân nặng dài hạn. Mặc dù hiện tại nhiều chương trình này chưa được bảo hiểm hoặc chính sách y tế công chi trả, có bằng chứng cho thấy chúng hiệu quả ở cả mức độ cá nhân lẫn cộng đồng.
Việc duy trì cân nặng nên bao gồm liên lạc tối thiểu hàng tháng, tự theo dõi cân nặng thường xuyên (ít nhất mỗi tuần), sử dụng các công cụ theo dõi ăn uống hoặc bước đi, duy trì thay đổi dinh dưỡng và hành vi, duy trì hoạt động thể chất mức cao (200-300 phút/tuần).
Một số chương trình thương mại có cho thấy hiệu quả giảm cân, tuy nhiên vẫn còn thiếu bằng chứng đồng nhất và không ít chương trình sử dụng phương pháp không khoa học, thậm chí tiềm ẩn rủi ro.
Chế độ ăn rất ít calo (800-1.000kcal/ngày), thường gồm thực phẩm giàu protein và các sản phẩm thay thế bữa ăn, có thể giúp giảm cân nhanh hơn trong giai đoạn đầu. Tuy nhiên, các phương pháp này chỉ nên áp dụng trong thời gian ngắn (thường không quá 3 tháng), với sự theo dõi chặt chẽ bởi Bác sĩ chuyên khoa và phải tích hợp hỗ trợ tâm lý hành vi đầy đủ.
Do nguy cơ biến chứng như rối loạn điện giải, mệt mỏi nghiêm trọng, rối loạn nhịp tim, các phương pháp này chỉ nên dành cho người được chọn lọc kỹ lưỡng như cần giảm cân trước phẫu thuật hoặc kiểm soát đường huyết cấp tốc. Sau khi đạt mục tiêu, cần tích hợp chiến lược duy trì dài hạn để ngăn ngừa tăng cân trở lại.
Dù có nhiều quảng cáo và tuyên bố hấp dẫn, hiện chưa có bằng chứng rõ ràng nào cho thấy thực phẩm chức năng như thảo dược, vitamin, khoáng chất hay enzyme giúp giảm cân hiệu quả.
Nhiều tổng quan hệ thống cho thấy phần lớn nghiên cứu về thực phẩm bổ sung trong giảm cân có chất lượng thấp và rủi ro sai số cao. Một số vitamin hoặc khoáng chất (như sắt, B12, vitamin D) có thể cần bổ sung nếu có thiếu hụt xác định, hoặc bổ sung protein có thể hỗ trợ trong các phác đồ giảm cân có giám sát y tế.
Cuối cùng, các yếu tố bất bình đẳng trong xã hội như chủng tộc, thu nhập, giới tính, khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có thể ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận thực phẩm lành mạnh, môi trường vận động an toàn và toàn bộ quá trình điều trị đái tháo đường và béo phì. Nhân viên y tế cần đánh giá kỹ các yếu tố xã hội này để xây dựng kế hoạch điều trị cá nhân hóa và hiệu quả hơn.
* Voucher chỉ áp dụng cho khách hàng thăm khám lần đầu tiên tại Phòng khám MedFit
Điều trị bằng thuốc hỗ trợ quản lý cân nặng
Khuyến cáo
- 14. Nên hạn chế tối đa việc sử dụng các loại thuốc điều trị bệnh lý đi kèm có thể gây tăng cân, nếu có thể. Mức chứng cứ E
- 15. Khi lựa chọn thuốc hạ đường huyết cho người bệnh đái tháo đường típ 2 có thừa cân hoặc béo phì, nên ưu tiên các thuốc có tác dụng hỗ trợ giảm cân. Mức chứng cứ B
- 16. Việc sử dụng thuốc điều trị béo phì nên được cân nhắc ở người đái tháo đường có thừa cân hoặc béo phì, kết hợp cùng với thay đổi lối sống. Cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ khi điều trị. Mức chứng cứ A
- 17. Ở người đái tháo đường típ 2 có thừa cân hoặc béo phì, nên ưu tiên lựa chọn nhóm thuốc chủ vận thụ thể GLP-1 hoặc các thuốc đồng vận kép GIP và GLP-1 có hiệu quả giảm cân cao hơn, như semaglutide hoặc tirzepatide. Những thuốc này còn có lợi ích không phụ thuộc cân nặng như cải thiện đường huyết và yếu tố chuyển hóa tim mạch. Mức chứng cứ A
- 18. Cần sàng lọc nguy cơ suy dinh dưỡng ở những người bệnh đái tháo đường béo phì đã giảm cân đáng kể, đặc biệt ở những người đã trải qua phẫu thuật chuyển hóa hoặc đang sử dụng thuốc giảm cân. Mức chứng cứ B
- 19. Những thuốc điều trị béo phì được chỉ định cho liệu trình kéo dài nên tiếp tục sử dụng kể cả sau khi đạt được mục tiêu giảm cân để duy trì lợi ích sức khỏe. Việc ngưng thuốc đột ngột thường dẫn đến tăng cân trở lại và làm xấu đi các yếu tố nguy cơ tim mạch chuyển hóa. Mức chứng cứ A
- 20. Với những trường hợp không đạt được mục tiêu điều trị, cần đánh giá lại kế hoạch quản lý cân nặng và cân nhắc tăng cường bằng cách kết hợp các phương pháp khác như phẫu thuật chuyển hóa, thêm thuốc điều trị hoặc tham gia các chương trình can thiệp lối sống được thiết kế bài bản. Mức chứng cứ A
Điều trị thuốc hạ đường huyết
Hiện nay có nhiều nhóm thuốc hạ đường huyết hiệu quả. Tuy nhiên, để đạt đồng thời mục tiêu kiểm soát đường huyết và cân nặng ở người đái tháo đường, nhân viên y tế nên ưu tiên sử dụng các thuốc có tác dụng giảm cân rõ rệt. Các thuốc giúp giảm cân đáng kể bao gồm nhóm chủ vận thụ thể GLP-1 (GLP-1 receptor agonist) và thuốc đồng vận kép GIP và GLP-1 như tirzepatide.
Ngoài ra, một số thuốc khác như ức chế SGLT2, metformin, acarbose và amylin mimetic cũng có tác dụng hỗ trợ giảm cân nhưng hiệu quả thường dưới 5% cân nặng cơ thể. Các thuốc có tác dụng trung tính về cân nặng gồm nhóm ức chế DPP-4, chất chủ vận dopamine trung ương như bromocriptine, thuốc ức chế alpha-glucosidase và thuốc liên kết acid mật như colesevelam.
Ngược lại, các nhóm thuốc dễ gây tăng cân bao gồm sulfonylurea, meglitinide, thiazolidinedione và insulin.
Các thuốc dùng kèm khác cần lưu ý
Nhân viên y tế nên xem xét kỹ các thuốc bệnh nhân đang sử dụng kèm và giảm thiểu hoặc thay thế nếu các thuốc đó có nguy cơ gây tăng cân. Một số ví dụ điển hình về thuốc dễ gây tăng cân bao gồm:
- Các thuốc chống loạn thần như clozapine, olanzapine và risperidone.
- Một số thuốc chống trầm cảm như nhóm 3 vòng, một số SSRI và MAOI.
- Glucocorticoid.
- Progestin dạng tiêm.
- Một số thuốc chống co giật như gabapentin và pregabalin.
- Các thuốc chẹn beta như atenolol, metoprolol và propranolol.
- Một số thuốc kháng histamine gây buồn ngủ và thuốc kháng cholinergic.
Các thuốc được phê duyệt trong điều trị quản lý cân nặng
Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) Hoa Kỳ đã phê duyệt một số loại thuốc điều trị béo phì như là biện pháp hỗ trợ bên cạnh chế độ ăn giảm năng lượng và tăng cường hoạt động thể chất, dành cho người có chỉ số BMI từ 30kg/m² trở lên hoặc từ 27kg/m² trở lên kèm theo ít nhất một bệnh lý đi kèm liên quan đến béo phì (như đái tháo đường típ 2, tăng huyết áp hoặc rối loạn lipid máu).
Gần như tất cả các thuốc giảm cân đã được FDA Hoa Kỳ phê duyệt đều cho thấy có hiệu quả cải thiện đường huyết ở người bệnh đái tháo đường típ 2 và làm chậm tiến trình phát triển bệnh ở những người có nguy cơ cao. Một số thuốc (như liraglutide, semaglutide, tirzepatide) được phê duyệt cho cả mục đích kiểm soát đường huyết và giảm cân.
Phentermine và một số thuốc adrenergic thế hệ cũ chỉ được phê duyệt dùng ngắn hạn, trong khi các thuốc khác được phê duyệt dùng dài hạn. Ngoài ra, setmelanotide, một chất đồng vận thụ thể melanocortin-4, đã được phê duyệt sử dụng trong các trường hợp rối loạn di truyền hiếm, gây thèm ăn quá mức và béo phì nghiêm trọng như thiếu hụt thụ thể leptin hoặc proopiomelanocortin.
Bảng các thuốc điều trị béo phì đã được phê duyệt
Bảng chi phí trung bình hàng tháng của các thuốc điều trị béo phì (giá AWP và NADAC tính đến 1/7/2024)
* Giá AWP (Average Wholesale Price – giá bán buôn trung bình) và NADAC (National Average Drug Acquisition Cost – chi phí trung bình quốc gia để mua thuốc)
Tên thuốc | Liều duy trì thông thường | Giá AWP (30 ngày) | Giá NADAC (30 ngày) |
Phentermine | 8-37,5mg/ngày | 43USD (9-98USD) | 3USD (3-79USD) |
Orlistat (OTC) | 60mg × 3 lần/ngày | 58USD | Không có dữ liệu |
Orlistat (Rx) | 120mg × 3 lần/ngày | 843USD | 677USD |
Phentermine/topiramate ER | 7,5/46mg/ngày | 237USD | Không có dữ liệu |
Naltrexone/bupropion ER | 16/180mg × 2 lần/ngày | 750USD | Không có dữ liệu |
Liraglutide | 3mg/ngày | 1.619USD | 1.296USD |
Semaglutide | 2,4mg/tuần | 1.619USD | 1.296USD |
Tirzepatide | 5-15mg/tuần | 1.272USD | 1.017USD |
Ở người mắc đái tháo đường típ 2 kèm theo thừa cân hoặc béo phì, nên ưu tiên sử dụng các thuốc có đồng thời hiệu quả hạ đường huyết và giảm cân. Các thuốc này bao gồm các chất đồng vận thụ thể GLP-1 (GLP-1 RA) và nhóm thuốc kết hợp giữa GIP và GLP-1 RA, được gọi chung là các liệu pháp dựa trên hormone kích thích từ dưỡng chất. Nhóm thuốc này cũng bao gồm các hoạt chất đang được nghiên cứu có tác động lên nhiều con đường hormone khác liên quan đến dưỡng chất như glucagon và amylin.
Nếu việc sử dụng các thuốc này không giúp đạt được mục tiêu kiểm soát cân nặng hoặc nếu người bệnh không dung nạp được hoặc có chống chỉ định, cần xem xét các phương pháp điều trị béo phì khác.
Trong nghiên cứu STEP-2 đánh giá hiệu quả và tính an toàn của semaglutide liều 2,4mg tiêm mỗi tuần ở người đái tháo đường típ 2 có thừa cân hoặc béo phì, semaglutide 2,4mg giúp giảm trọng lượng cơ thể trung bình nhiều hơn giả dược 6,2% và giảm A1C nhiều hơn giả dược 1,2% sau 68 tuần điều trị.
Trong nghiên cứu SURMOUNT-2 – một thử nghiệm ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng với giả dược, đánh giá hiệu quả và an toàn của tirzepatide tiêm tuần ở người đái tháo đường típ 2 có thừa cân hoặc béo phì, tirzepatide giúp giảm trọng lượng cơ thể nhiều hơn giả dược 9,6% (liều 10mg) và 11,6% (liều 15mg), đồng thời giảm A1C nhiều hơn giả dược 1,55% và 1,57% sau 72 tuần điều trị. Các tác dụng phụ ghi nhận tương tự với nhóm GLP-1 RA.
Mức giảm cân đạt được khi dùng thuốc giảm cân thường thấp hơn ở người đái tháo đường so với những người có cùng cân nặng ban đầu nhưng không mắc đái tháo đường. Vì vậy, cần định hướng lại kỳ vọng một cách phù hợp cho cả người bệnh và nhân viên y tế.
Các thuốc điều trị giảm cân mang lại nhiều lợi ích vượt trội ngoài việc kiểm soát đường huyết và cân nặng. Một số ví dụ bao gồm cải thiện hoặc có tiềm năng cải thiện các yếu tố nguy cơ tim mạch (như huyết áp và lipid máu), tình trạng viêm, hội chứng ngưng thở khi ngủ, gan nhiễm mỡ không do rượu (MASLD và MASH), cũng như các triệu chứng liên quan đến suy tim với phân suất tống máu bảo tồn.
Liraglutide 1,8mg và semaglutide 1mg (liều được phê duyệt trong điều trị đái tháo đường típ 2, thấp hơn liều dùng trong điều trị béo phì) đã được chứng minh làm giảm nguy cơ biến cố tim mạch ở người mắc đái tháo đường típ 2 có nguy cơ cao hoặc đang mắc bệnh tim mạch.
Thêm vào đó, semaglutide 2,4mg (liều được phê duyệt trong điều trị béo phì) cũng cho thấy hiệu quả làm giảm biến cố tim mạch ở người thừa cân hoặc béo phì có sẵn bệnh tim mạch nhưng chưa mắc đái tháo đường.
Nhân viên y tế cần có hiểu biết đầy đủ về liều dùng, hiệu quả và các nguy cơ của từng lựa chọn điều trị, để cân nhắc giữa lợi ích giảm cân đạt được với các nguy cơ có thể xảy ra ở từng cá nhân.
Nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao và tần suất xuất hiện bệnh lý tim mạch ở người đái tháo đường cần được cân đối với sự thiếu hụt dữ liệu về kết cục tim mạch dài hạn của một số thuốc, như phối hợp naltrexone và bupropion hay phối hợp phentermine và topiramate. Mức độ đáp ứng của từng người đối với thuốc giảm cân là rất khác nhau, do đó cần đánh giá lại hiệu quả sau một thời gian sử dụng và điều chỉnh phác đồ nếu cần thiết.
Tất cả các thuốc này đều chống chỉ định ở người đang mang thai hoặc có kế hoạch mang thai và không được khuyến cáo sử dụng ở người đang cho con bú. Những người có khả năng sinh sản cần được tư vấn về việc sử dụng các biện pháp tránh thai đáng tin cậy trong suốt thời gian dùng thuốc giảm cân.
Riêng đối với tirzepatide, thuốc này có thể làm giảm hiệu quả của thuốc tránh thai đường uống do làm chậm quá trình làm rỗng dạ dày, tác động này mạnh nhất sau liều đầu tiên và sẽ giảm dần theo thời gian. Do đó, những người đang sử dụng thuốc tránh thai uống nên chuyển sang phương pháp tránh thai không qua đường uống hoặc kết hợp thêm biện pháp tránh thai rào trong vòng 4 tuần kể từ khi bắt đầu điều trị và sau mỗi lần tăng liều.
Cũng cần lưu ý rằng, mặc dù thuốc giảm cân thường được sử dụng ở người đái tháo đường típ 1 nhưng dữ liệu thử nghiệm lâm sàng trong quần thể này còn rất hạn chế. Các liệu pháp điều trị dựa trên incretin và phẫu thuật chuyển hóa trong giảm cân có thể làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng và teo cơ.
Do đó, nhân viên y tế nên khuyến khích người bệnh luyện tập đề kháng và đảm bảo cung cấp đủ lượng protein trong chế độ ăn. Người mắc đái tháo đường có tình trạng giảm cân nhanh chóng (trên 4kg/tháng) hoặc giảm trên 20% trọng lượng cơ thể nên được sàng lọc suy dinh dưỡng.
Dù chưa có phương pháp nào đơn lẻ có thể sàng lọc cùng lúc cả suy dinh dưỡng và sarcopenia, vẫn có các công cụ sàng lọc riêng biệt cho từng tình trạng, như bảng câu hỏi đánh giá khẩu vị ăn uống đơn giản (SNAQ) và công cụ sàng lọc suy dinh dưỡng toàn diện (MUST). Vì vậy, việc lựa chọn điều trị nên được cá nhân hóa, dựa trên các yếu tố như bệnh đi kèm, nguy cơ tác dụng phụ, gánh nặng điều trị, chi phí và khả năng tiếp cận, cũng như mục tiêu và sở thích của từng cá nhân.
Chi phí thuốc và phạm vi chi trả của bảo hiểm thường ảnh hưởng lớn đến quyết định điều trị. Ngoài ra, điều quan trọng là đội ngũ y tế cần nắm rõ các yêu cầu bảo hiểm, xây dựng hệ thống hỗ trợ Bác sĩ kê đơn thuốc giảm cân đúng hướng dẫn, đồng thời giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho người bệnh, bao gồm các yêu cầu về danh mục thuốc, điều kiện tham gia chương trình hỗ trợ thuốc và sử dụng thẻ hỗ trợ chi phí đồng thanh toán.
Đánh giá hiệu quả và an toàn của thuốc điều trị kiểm soát cân nặng
Khi bắt đầu sử dụng thuốc điều trị béo phì, cần đánh giá hiệu quả và độ an toàn của thuốc ít nhất mỗi tháng trong 3 tháng đầu và ít nhất mỗi quý sau đó. Các mô hình phân tích từ các thử nghiệm lâm sàng công bố cho thấy, rõ ràng rằng những người có đáp ứng sớm sẽ có kết quả lâu dài tốt hơn; tuy nhiên, đáng lưu ý là tỷ lệ đáp ứng với thế hệ thuốc giảm cân hiện đại cao hơn nhiều so với các thuốc trước đây.
Nếu không có vấn đề lâm sàng đặc biệt (như không dung nạp thuốc) hoặc các yếu tố cá nhân khác (như chi phí hoặc sở thích cá nhân), những người đạt được mức giảm cân đủ sớm khi bắt đầu dùng thuốc (thường được định nghĩa là giảm > 5% trọng lượng cơ thể sau 3 tháng) nên tiếp tục dùng thuốc lâu dài.
Ngược lại, nếu sau 3 tháng mà mức giảm cân còn khiêm tốn (< 5%), cần xem xét lợi ích điều trị tiếp theo dựa trên các yếu tố như đáp ứng đường huyết, các lựa chọn điều trị khác có sẵn, khả năng dung nạp thuốc và tổng gánh nặng điều trị. Việc theo dõi liên tục để đánh giá việc đạt được và duy trì mục tiêu kiểm soát cân nặng là rất cần thiết.
Ngưng đột ngột semaglutide hoặc tirzepatide thường dẫn đến việc tăng lại khoảng một nửa đến hai phần ba trọng lượng đã giảm trong vòng 1 năm. Cần thực hiện quy trình cùng quyết giữa Bác sĩ và người bệnh để xác định hướng điều trị dài hạn phù hợp nhất, ví dụ như duy trì thuốc ở liều hiệu quả thấp nhất, áp dụng liệu pháp gián đoạn hoặc ngừng thuốc và theo dõi cân nặng sát sao.
Đối với người không đạt hoặc không duy trì mục tiêu kiểm soát cân nặng, không nên để tình trạng trì trệ điều trị tiếp diễn, mà cần đánh giá lại toàn bộ các biện pháp đang áp dụng và tăng cường can thiệp nếu cần, bao gồm phẫu thuật chuyển hóa, kết hợp thêm thuốc hoặc các chương trình thay đổi lối sống có cấu trúc.
Thiết bị y tế hỗ trợ giảm cân
Dù phương pháp đặt vòng thắt dạ dày đã không còn được ưa chuộng do hiệu quả kém về lâu dài và tỷ lệ biến chứng cao, hiện có một số thiết bị y tế ít xâm lấn đã được FDA Hoa Kỳ phê duyệt để hỗ trợ giảm cân ngắn hạn, bao gồm:
- Bóng dạ dày (gắn vào dạ dày).
- Thiết bị kích thích dây thần kinh phế vị.
- Phương pháp hút dạ dày qua ống dẫn.
Tuy nhiên, chi phí cao, bảo hiểm y tế hạn chế và dữ liệu hiệu quả còn hạn chế ở người bệnh đái tháo đường khiến tính ứng dụng của các thiết bị này vẫn còn không chắc chắn. Một số thiết bị đã được nhà sản xuất chủ động rút khỏi thị trường Hoa Kỳ.
* Voucher chỉ áp dụng cho khách hàng thăm khám lần đầu tiên tại Phòng khám MedFit
Phẫu thuật chuyển hóa
Khuyến cáo
- 21. Cân nhắc phẫu thuật chuyển hóa như một biện pháp quản lý cân nặng và đường huyết cho người đái tháo đường có BMI ≥ 30kg/m² (hoặc ≥ 27,5kg/m² đối với người Mỹ gốc Á) nếu đủ điều kiện phẫu thuật. Mức chứng cứ A
- 22. Phẫu thuật chuyển hóa nên được thực hiện tại các trung tâm có khối lượng ca lớn, với đội ngũ liên chuyên khoa có kinh nghiệm trong điều trị béo phì, đái tháo đường và phẫu thuật đường tiêu hóa. Mức chứng cứ E (xem thêm tại: www.facs.org/quality-programs/accreditation-and-verification/metabolic-and-bariatric-surgery-accreditation-and-quality-improvement-program)
- 23. Những người được cân nhắc phẫu thuật chuyển hóa nên được đánh giá về tình trạng tâm lý, hoàn cảnh xã hội và các yếu tố môi trường có thể ảnh hưởng đến kết quả sau phẫu thuật. Mức chứng cứ B
- 24. Người trải qua phẫu thuật chuyển hóa cần được hỗ trợ y tế và hành vi lâu dài, theo dõi vi chất dinh dưỡng, tình trạng dinh dưỡng và chuyển hóa định kỳ. Mức chứng cứ B
- 25. Nếu nghi ngờ hạ đường huyết sau phẫu thuật chuyển hóa, cần loại trừ các nguyên nhân khác, đồng thời điều trị bao gồm giáo dục, tư vấn dinh dưỡng y khoa với chuyên gia có kinh nghiệm trong hạ đường huyết sau mổ và điều trị bằng thuốc nếu cần thiết. Mức chứng cứ A Sử dụng thiết bị đo đường huyết liên tục để tăng độ an toàn. Mức chứng cứ C
- 26. Cần sàng lọc định kỳ các thay đổi tâm lý và hành vi sau phẫu thuật và chuyển người bệnh đến chuyên gia sức khỏe tâm thần khi cần. Mức chứng cứ C
- 27. Theo dõi tình trạng không giảm cân đủ hoặc tăng cân trở lại sau phẫu thuật mỗi 6-12 tháng. Mức chứng cứ E Nếu có tình trạng này, đánh giá nguyên nhân và cân nhắc điều trị bổ sung, ví dụ dùng thuốc giảm cân. Mức chứng cứ C
Các thủ thuật phẫu thuật điều trị béo phì, thường được gọi là phẫu thuật chuyển hóa, phẫu thuật giảm cân hoặc phẫu thuật chuyển hóa/béo phì, đã được chứng minh giúp giảm cân đáng kể và bền vững, cải thiện kiểm soát đường huyết và các kết cục sức khỏe lâu dài ở người đái tháo đường típ 2.
Với khả năng cải thiện nhanh chóng và rõ rệt tình trạng tăng đường huyết và cân bằng glucose, các thủ thuật này hiện được xem là một phương pháp điều trị đái tháo đường típ 2 ngay cả khi không có béo phì nặng, dẫn đến sự ưu tiên dùng thuật ngữ “phẫu thuật chuyển hóa”.
Một khối lượng lớn bằng chứng, bao gồm dữ liệu từ các nghiên cứu đoàn hệ lớn và các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (không mù), cho thấy phẫu thuật chuyển hóa mang lại hiệu quả vượt trội trong kiểm soát đường huyết và giảm nguy cơ tim mạch ở người mắc đái tháo đường típ 2 và béo phì, so với các can thiệp không phẫu thuật.
Ngoài tác dụng hạ đường huyết, phẫu thuật chuyển hóa còn giúp giảm nguy cơ biến chứng vi mạch, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm nguy cơ ung thư, cải thiện yếu tố nguy cơ và biến cố tim mạch lâu dài, đồng thời giảm tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân.
Các nghiên cứu đoàn hệ so sánh nhóm phẫu thuật và không phẫu thuật được ghép cặp cũng gợi ý mạnh mẽ rằng, phẫu thuật chuyển hóa giúp giảm tử vong do mọi nguyên nhân. Nhiều nghiên cứu khác cho thấy phẫu thuật chuyển hóa cải thiện đáng kể tình trạng gan ở người mắc MASH, bao gồm cả những trường hợp đã được xác nhận qua sinh thiết.
Hai thủ thuật phổ biến nhất tại Hoa Kỳ là cắt dạ dày hình ống (vertical sleeve gastrectomy – VSG) và nối tắt dạ dày kiểu Roux-en-Y (RYGB). Cả hai đều làm giảm thể tích dạ dày và tạo ra những thay đổi mạnh mẽ về hormone nội tiết ruột.
- Trong VSG, khoảng 80% dạ dày được cắt bỏ, để lại một ống dạ dày hẹp.
- Trong RYGB, một túi dạ dày nhỏ (kích thước tương đương quả óc chó) được tạo ra và nối trực tiếp xuống đoạn ruột non xa, bỏ qua tá tràng và hỗng tràng.
Phẫu thuật chuyển hóa đã được chứng minh có lợi cho việc kiểm soát đái tháo đường típ 2 bất kể BMI trước mổ. Hiệp hội Phẫu thuật Chuyển hóa và Béo phì Hoa Kỳ khuyến nghị thực hiện phẫu thuật chuyển hóa ở người mắc đái tháo đường típ 2 có BMI ≥ 30kg/m² (hoặc ≥ 27,5kg/m² với người Mỹ gốc Á), nếu người bệnh đủ điều kiện mổ.
Một phân tích dữ liệu thực tế từ mạng lưới nghiên cứu PCORnet tại Hoa Kỳ so sánh kết quả giữa 6.233 người được mổ RYGB và 3.477 người mổ VSG:
- Sau 1 năm, nhóm RYGB giảm trung bình 29,1% trọng lượng cơ thể, trong khi nhóm VSG giảm 22,8%.
- Sau 5 năm, mức giảm lần lượt là 24,1% và 16,1%.
- Tỷ lệ lui bệnh đái tháo đường sau 5 năm là 86,1% ở nhóm RYGB và 83,5% ở nhóm VSG.
- Trong số 6.141 người đạt lui bệnh, tỷ lệ tái phát thấp hơn ở nhóm RYGB, với ước tính 33,1% tái phát sau RYGB và 41,6% sau VSG.
- Sau 5 năm, mức giảm A1C trung bình ở nhóm RYGB cũng vượt trội hơn VSG khoảng 0,4 điểm phần trăm.
Nghiên cứu STAMPEDE, trong đó 150 người mắc đái tháo đường típ 2 được phân ngẫu nhiên nhận điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật, cho thấy sau 5 năm, có 29% người RYGB và 23% người VSG đạt A1C ≤ 6,0%. Mặc dù dữ liệu cho thấy tình trạng lui bệnh có thể giảm dần theo thời gian, với khoảng 35-50% tái phát nhưng thời gian lui bệnh trung vị sau RYGB là 8,3 năm và phần lớn vẫn duy trì cải thiện đường huyết từ 5-15 năm sau phẫu thuật.
Rất ít yếu tố trước mổ có thể dự đoán lui bệnh, tuy nhiên các yếu tố liên quan đến khả năng lui bệnh cao bao gồm tuổi trẻ, thời gian mắc bệnh ngắn (dưới 8 năm), kiểm soát đường huyết tốt hơn, không dùng insulin và lượng mỡ nội tạng cao hơn, đặc biệt ở người Mỹ gốc Á.
Một số nghiên cứu loạt ca cũng cho thấy phẫu thuật chuyển hóa có thể cải thiện chuyển hóa và nguy cơ tim mạch ở người mắc đái tháo đường típ 1, tuy nhiên cần thêm các nghiên cứu lớn, thiết kế tốt để xác định vai trò trong nhóm này.
Mặc dù chi phí ban đầu của phẫu thuật cao hơn các phương pháp điều trị nội khoa, các phân tích hồi cứu và mô hình hóa cho thấy phẫu thuật có thể tiết kiệm chi phí hoặc hiệu quả kinh tế trong điều trị đái tháo đường típ 2. Tuy nhiên, các kết quả này phụ thuộc nhiều vào giả định về hiệu quả lâu dài, loại thuốc so sánh, khung thời gian đánh giá chi phí và đặc điểm dân số nghiên cứu.
Độ an toàn của phẫu thuật đã cải thiện đáng kể nhờ kỹ thuật mổ nội soi ít xâm lấn, đào tạo chuyên sâu và mô hình chăm sóc đa chuyên khoa. Tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật rất thấp (0,1-0,5%), tương đương với các phẫu thuật bụng phổ biến khác như cắt túi mật. Biến chứng lớn xảy ra ở 2-6%, trong khi biến chứng nhẹ hoặc cần phẫu thuật lại chiếm khoảng 15%.
Dữ liệu thực nghiệm cho thấy trình độ của phẫu thuật viên và đội ngũ phẫu thuật là yếu tố quyết định hàng đầu đối với tỷ lệ biến chứng, tử vong và tái nhập viện. Do đó, phẫu thuật nên được thực hiện tại các trung tâm có khối lượng ca lớn, có đội ngũ chuyên môn về béo phì, đái tháo đường và phẫu thuật tiêu hóa.
Ngoài giai đoạn hậu phẫu sớm, nguy cơ dài hạn bao gồm thiếu hụt vi chất, thiếu máu, loãng xương, hội chứng dumping và hạ đường huyết nghiêm trọng. Tần suất thiếu hụt dinh dưỡng và biến chứng liên quan thay đổi theo loại phẫu thuật và đòi hỏi phải theo dõi vi chất và dinh dưỡng suốt đời, cũng như bổ sung vitamin và dưỡng chất đều đặn.
Hội chứng dumping thường xảy ra 10-30 phút sau ăn và biểu hiện với tiêu chảy, buồn nôn, nôn, đánh trống ngực và mệt mỏi, thường không có hạ đường huyết lúc triệu chứng khởi phát nhưng có thể xuất hiện vài giờ sau đó.
Hạ đường huyết sau phẫu thuật có thể gặp ở cả RYGB, VSG và các phương pháp khác, thường xảy ra 1-3 giờ sau bữa ăn nhiều carbohydrate, do thức ăn được làm rỗng dạ dày quá nhanh dẫn đến tăng hấp thu glucose, tăng tiết GLP-1 và insulin. Triệu chứng có thể từ nhẹ (vã mồ hôi, run, đói) đến nặng (giảm nhận thức, ngất, co giật).
Chẩn đoán dựa vào bệnh sử, nhật ký ăn uống, vận động, triệu chứng và loại trừ các nguyên nhân khác. Điều trị ban đầu gồm giảm tinh bột hấp thu nhanh, bổ sung protein, chất béo và vi chất, hỗ trợ dinh dưỡng chuyên biệt và sử dụng thiết bị theo dõi đường huyết liên tục (đặc biệt với người mất cảm giác hạ đường huyết). Thuốc có thể dùng nếu cần, bao gồm acarbose (làm chậm hấp thu carbohydrate), diazoxide và octreotide (giảm tiết GLP-1 và insulin).
Người trải qua phẫu thuật chuyển hóa cũng có nguy cơ cao bị rối loạn tâm thần như trầm cảm, lo âu, ý tưởng tự tử và rối loạn sử dụng chất kích thích. Những người này cần được đánh giá tâm lý kỹ lưỡng trước khi phẫu thuật. Phẫu thuật nên hoãn lại ở người đang có rối loạn tâm thần nghiêm trọng cho đến khi được kiểm soát tốt. Cần theo dõi sức khỏe tâm thần sau mổ định kỳ để tối ưu hóa kết quả.
Hiện chưa có bằng chứng rõ ràng hỗ trợ việc sử dụng thuốc tác động hormone kích thích dinh dưỡng (như GLP-1 RA) trước hoặc sau phẫu thuật. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho thấy, ở người BMI > 50kg/m², dùng GLP-1 RA trước mổ giúp giảm cân mà không làm tăng biến chứng hoặc trì hoãn mổ.
GLP-1 RA cũng có thể được cân nhắc sử dụng sau mổ khi giảm cân chững lại hoặc tăng cân trở lại, như một lựa chọn thay thế cho phẫu thuật sửa đổi. Tuy nhiên, chưa có dữ liệu dài hạn về hiệu quả duy trì, nguy cơ tái tăng cân sau khi ngưng thuốc hoặc tác dụng phụ lâu dài.
Tài liệu tham khảo
- American Diabetes Association Professional Practice Committee; 8. Obesity and Weight Management for the Prevention and Treatment of Type 2 Diabetes: Standards of Care in Diabetes–2025. Diabetes Care 1 January 2025; 48 (Supplement_1): S167–S180. https://doi.org/10.2337/dc25-S008